Lịch sử hoạt động Martin B-57 Canberra

Một chiếc EB-57A đang đậu tại Căn cứ Không quân Scott, 1969.

Chiếc B-57A đã được Không quân Mỹ cho là không sẵn sàng để hoạt động và những chiếc máy bay này chỉ được sử dụng để thử nghiệm và phát triển. Một trong những chiếc máy bay được tặng cho Cơ quan Quốc gia Hải dương và Khí quyển (National Oceanic and Atmospheric Administration) và được trang bị vòm radar mới dùng trong việc theo dõi các cơn cuồng phong. Lý do cho việc giới hạn sản xuất này rõ ràng là do người ta cho rằng chiếc B-57A Anh Quốc không phù hợp để hoạt động trong Không quân Mỹ. Những mối bất đồng đặc biệt là do kiểu sắp xếp vị trí trong buồng lái và thiếu các khẩu súng, vì chiếc Canberra Anh Quốc được thiết kế như là một máy bay ném bom tầm cao tốc độ cao hơn là cho một nhiệm vụ hỗ trợ gần mặt đất. Kiểu cuối cùng B-57B áp dụng buồng lái mới sắp xếp theo kiểu vị trí trước-sau với nóc buồng lái dạng bọt nước, các động cơ giờ đây được khởi động với cartridge thuốc pháo, các phanh gió được chuyển từ cánh sang bên hông thân nhằm tăng hiệu quả, các bề mặt kiểm soát được tăng cường, bốn đế được trang bị dưới cánh, và chiếc máy bay được trang bị tám khẩu súng máy Browning 12,7 mm (0,50 in) trên cánh, sau này được thay bằng bốn pháo M39 20 mm. Chiếc B-57B bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 18 tháng 6 năm 1954. Chiếc máy bay bị ảnh hưởng bởi hoạt động kém của động cơ giống như phiên bản RB-57A và nhiều chiếc bị mất khi hoạt động tốc độ cao ở tầm thấp do hỏng điều khiển đuôi làm cho chiếc máy bay bị bổ nhào xuống đất. Không quân Mỹ cho rằng chiếc B-57B không phù hợp cho vai trò xâm nhập ban đêm, và hãng Martin đã tiến hành nâng cấp rộng rãi cho hệ thống điện tử của nó. Dù vậy, đến cuối năm 1957, các phi đội không quân chiến thuật được trang bị lại bằng kiểu máy bay siêu âm F-100 Super Sabre. Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược Không quân Hoa Kỳ đã đưa những chiếc B-57 Canberra vào hoạt động từ năm 1956 đến năm 1962. Kế hoạch cho nghỉ hưu toàn bộ kiểu máy bay này bị trì hoãn do sự kiện bắt đầu Chiến tranh Việt Nam.

Chiến tranh Việt Nam

Chiếc RB-57E trong kế hoạch Patricia Lynn tại Đà Nẵng, tháng 1 năm 1964

Điều khôi hài là những chiếc B-57 đầu tiên được bố trí đến Nam Việt Nam không được dự định dành cho chiến đấu. Nhu cầu cần có thêm những máy bay trinh sát, đặc biệt là những chiếc có khả năng hoạt động ban đêm, đã đưa đến việc bố trí hai chiếc máy bay RB-57E vào ngày 15 tháng 4 năm 1963. Dưới kế hoạch Patricia Lynn những chiếc máy bay này thực hiện trinh sát bằng hồng ngoại sử dụng những máy ảnh Reconofax VI.[2] Sau đó vào tháng 8 năm 1965, thêm một chiếc RB-57F được bố trí đến Căn cứ Udon Thani, Thái Lan trong một nỗ lực nhằm thu thập thông tin về các vị trí tên lửa đất-đối-không SAM của Bắc Việt Nam, ban đầu dưới kế hoạch Greek God và sau đó dưới kế hoạch Mad King. Đến tháng 12 một chiếc RB-57F khác được bố trí cho mục đích này dưới kế hoạch Sky Wave. Không có kế hoạch nào thu lượm được kết quả ích lợi và chúng lần lượt được kết thúc vào tháng 10 năm 1965tháng 2 năm 1966 tương ứng.[3]

Việc bố trí những chiếc B-57B có khả năng chiến đấu thực sự thuộc các phi đội ném bom 8 và 13 đến Biên Hòa vào tháng 8 năm 1964 bắt đầu bằng việc mất ba chiếc máy bay khi vừa đến nơi do đụng nhau trên không. Có thêm năm chiếc bị phá hủy và 15 chiếc bị hư hại do một cuộc tấn công bằng pháo cối của lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tháng 11 năm đó. Các phi vụ tầm thấp được gọi như là các chuyến bay huấn luyện được thực hiện hy vọng có được hiệu quả tâm lý. Phi vụ chiến đấu đầu tiên được thực hiện ngày 19 tháng 2 năm 1965.[4] Việc tấn công đầu tiên ra Bắc Việt Nam xảy ra vào ngày 2 tháng 3 như là một phần của Chiến dịch Rolling Thunder. Chiếc máy bay thường mang tiêu biểu 9 bom 227 kg (500 lb) trong khoang chứa bom và 4 bom 340 kg (750 lb) dưới cánh. Vào tháng 4, Canberra bắt đầu thực hiện các chuyến bay xâm nhập ban đêm được hỗ trợ bởi những máy bay ném pháo sáng C-123 Provider hay C-130 Hercules và máy bay chiến tranh điện tử EF-10B Skyknight. Trong những phi vụ tấn công ra miền Bắc Việt Nam, những chiếc B-57B mang theo pháo sáng của riêng nó.

Vào ngày 16 tháng 5 năm 1965, một chiếc B-57B vũ trang bị nổ trên đường băng tại Biên Hòa gây ra một vụ nổ dây chuyền làm phá hủy thêm mười chiếc Canberra, mười một chiếc A-1 Skyraider và một chiếc F-8 Crusader. Do thiệt hại trong chiến đấu, vào tháng 10 năm 1966 những chiếc B-57B được chuyển ra Phan Rang nơi chúng hỗ trợ các chiến dịch tại khu vực Tam giác sắt cùng với những chiếc Canberra B.20 của Australia. Chiếc máy bay cũng tiếp tục những phi vụ bay đêm can thiệp chống lại Đường mòn Hồ Chí Minh. Trong số 94 chiếc B-57B được bố trí đến Đông Nam Á, có 51 chiếc Canberra bị mất trong chiến đấu và bảy chiếc khác bị mất do mọi nguyên nhân. Chỉ còn chín chiếc có thể bay được vào năm 1969.

Chiếc "Tropic Moon III" B-57G trang bị cụm camera hồng ngoại FLIR/LLLTV bên trái mũi máy bay

Những chiếc B-57 đã quay trở lại đông Nam Á dưới biến thể Tropic Moon III B-57G, được bố trí đến Thái Lan từ mùa Thu năm 1970.[5] Được dự định trong vai trò máy bay xâm nhập ban đêm để tấn công dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh, những chiếc máy bay này được trang bị nhiều loại cảm biến mới và các thiết bị khác, và có khả năng ném bom dẫn đường bằng laser.[6] Số lượng mục tiêu bị tiêu diệt trong Chiến dịch Commando Hunt giữa B-57G so với chiếc AC-130A/E cho thấy nó không phù hợp cho vai trò tìm diệt xe tải.[7] Một nỗ lực phối hợp cả hai kiểu này đã đưa đến một chiếc B-57G được cải biến có một khoang bom đặc biệt gắn một tháp súng Emerson TAT-161 cùng một khẩu pháo M61 Vulcan 20 mm trong kế hoạch Pave Gat. Những kết quả yếu kém đã dẫn đến việc hệ thống này không được sản xuất và chiếc nguyên mẫu không được bố trí đến chiến trường.[8] Chiếc B-57G được rút khỏi Thái Lan từ tháng 5 năm 1972. Có những kế hoạch nhằm tiếp tục chương trình B-57G nhưng việc cắt giảm ngân sách sau chiến tranh đã khiến buộc phải từ bỏ những kế hoạch này.[9]

Bài chi tiết: Chiến dịch Shed Light

Trong một giai đoạn ngắn, lực lượng Không quân Nam Việt Nam đã sử dụng bốn chiếc máy bay B-57B. Không quân Nam Việt Nam đã không chính thức sở hữu những chiếc máy bay này, và sau những tai nạn cùng những vấn đề khác, bao gồm những than phiền của phi công Việt Nam rằng chiếc B-57 vượt quá khả năng thể hình của họ, chương trình được kết thúc vào tháng 4 năm 1966, và những chiếc máy bay được hoàn trả về đơn vị gốc trong Không quân Hoa Kỳ.[10]

Pakistan

Những chiếc B-57 của Không quân Pakistan.

Không quân Pakistan là một trong những lực lượng sử dụng B-57 chủ yếu và đã đưa chúng ra hoạt động trong hai cuộc chiến tranh với Ấn Độ. Trong cuộc Chiến tranh Kashmir lần hai vào năm 1965, những chiếc B-57 đã thực hiện 167 phi vụ và ném trên 600 tấn bom. Ba chiếc B-57 đã bị mất trong khi hoạt động cùng với một chiếc máy bay tình báo điện tử RB-57F[11]. Tuy nhiên, chỉ có một trong số ba máy bay bị mất mới thực sự là do hoạt động của đối phương[12]. Trong chiến tranh, phi đoàn ném bom của Không quân Pakistan tập trung tấn công các sân bay phía Bắc Ấn Độ. Để tránh những chiếc máy bay tiêm kích-ném bom đối phương, những chiếc B-57 hoạt động từ nhiều sân bay khác nhau, và bay đến các mục tiêu theo một dòng với thời gian cách nhau khoảng 15 phút, cách mà các nhà chiến lược Pakistan tin rằng sẽ phá vỡ đáng kể những nỗ lực chung của Không quân Ấn Độ.[13]

Trong cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971, Không quân Pakistan lại sử dụng những chiếc B-57. Ngay trong đêm đầu tiên, 12 sân bay của Không quân Ấn Độ trở thành mục tiêu với 183 quả bom đã được ném. Khi chiến tranh tiếp diễn, những chiếc B-57 Pakistan thực hiện nhiều phi vụ ban đêm. Con số tổn thất cao hơn so với năm 1965, với ít nhất năm chiếc B-57 bị loại khỏi phục vụ khi chiến tranh kết thúc.[11][14] Chúng được rút khỏi phục vụ trong Không quân Pakistan vào năm 1985.

Phiên bản trinh sát RB-57

Một chiếc RB-57D Canberra đang quan sát Thử nghiệm Juniper.

Trong khi Không quân Hoa kỳ cho rằng chiếc B-57A còn thiếu sót, phiên bản trinh sát hình ảnh RB-57A được sử dụng trong một số trường hợp. Bay chuyến bay đầu tiên vào tháng 10 năm 1953, những chiếc RB-57A được trang bị đầy đủ cho Không đoàn Trinh sát Chiến thuật 363 ở Căn cứ Không quân Shaw vào tháng 7 năm 1954. Chiếc máy bay cũng được bố trí đến các phi đội Không quân Mỹ tại Đức, Pháp và Nhật Bản. Tuy nhiên, tình trạng sẵn sàng hoạt động rất kém và chiếc máy bay chịu ảnh hưởng bởi việc trì hoãn sản xuất do những sự cố về động cơ. Wright đã giao việc sản xuất kiểu động cơ J65 cho nhà thầu phụ Buick gây ra hậu quả giao hàng chậm trễ và xu hướng làm cháy dầu khiến khói tuôn mù mịt trong buồng lái. Những vấn đề này được cải thiện khi Wright đảm trách trực tiếp việc sản xuất động cơ vào năm 1954. RB-57A cũng chịu ảnh hưởng bởi tỉ lệ tai nạn rất cao, một phần là do khả năng điều khiển bay chỉ còn một động cơ rất kém, khiến cả đội máy bay RB-57A phải trải qua gần trọn năm 1955 trên mặt đất. Đến năm 1958, tất cả những chiếc RB-57A được thay thế bởi Douglas RB-66BRF-101A trong hoạt động thường trực.

Các đơn vị Không lực Vệ binh Quốc gia đã dùng những chiếc RB-57A để khảo sát hình ảnh lục địa Hoa Kỳ, và đã thay đổi những chiếc máy bay cuối cùng vào năm 1971. Hai chiếc RB-57A được Không quân Trung Hoa Dân Quốc sử dụng cho những phi vụ trinh sát bên trên lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Một trong số chúng bị một máy bay MiG-17 Trung Quốc bắn rơi vào ngày 18 tháng 2 năm 1958. Đến năm 1959, một chiếc RB-57A do một Đại úy Không quân Trung Hoa Dân Quốc lái đã bị một tên lửa đất-đối-không SA-2 SAM bắn rơi bên trên lãnh thổ Trung Quốc, đánh dấu lần đầu tiên kiểu tên lửa đất-đối-không được mang ra sử dụng trong chiến đấu thành công. Có thêm hai chiếc RB-57A khác được Cục hàng không dân dụng Liên bang Hoa Kỳ sử dụng nhằm vạch các đường bay ở cao độ cao dành cho các máy bay phản lực dân dụng sắp ra đời. Một số chiếc RB-57 được Liên đội Hỗ trợ 7499 tại Wiesbaden sử dụng trong các phi vụ trinh sát 'Heart Throb' bên trên lãnh thổ châu Âu.

Bắt đầu từ năm 1959, Martin bắt đầu cải biến những chiếc RB-57A nghỉ hưu với những thiết bị phản công điện tử (ECM) trong khoang bom. Được đặt lại tên là EB-57A, những chiếc máy bay này được bố trí cùng các phi đội Đánh giá Hộ thống Phòng thủ để đóng vai trò kẻ xâm nhập nhằm huấn luyện các đơn vị phòng không trong nghệ thuật chiến tranh điện tử. Các phiên bản máy bay ném bom sau đó cũng được cải biến cho vai trò này.